Từ sự thành lập vương triều Nguyễn đến sự đảo lộn nhận thức về triều đại này trong giai đoạn vừa qua

Thứ sáu - 26/08/2016 21:10 652 0
Như bao triều đại khác tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, vương triều Nguyễn cũng đã được thành lập, phát triển và lụi tàn theo nhịp phế hưng của dòng chảy lịch sử dân tộc và theo đà trôi xuôi man mác của thời gian. Với thời gian làm chủ đất nước dài ngắn khác nhau, triều đại nào cũng có ưu nhược điểm, mặt tích cực và mặt tiêu cực, không nhiều thì ít. Tuy nhiên, sự đánh giá về về những mặt này đối với vương triều Nguyễn có vẻ đặt biệt hơn so với các triều đại khác trong lịch sử nước ta. Đặc biệt ở chỗ người đời chưa có được sự nhất trí trong nhận thức và sự giống nhau trong quan điểm. Chẳng hạn như nếu có người cho rằng nhờ có nhà Nguyễn nên dân tộc ta mới có được một đất nước Việt Nam rộng lớn và hoàn chỉnh như ngày nay, thì kẻ khác lại lên án triều Nguyễn là một triều đại “bán nước” và “cực kỳ phản động”.
Từ sự thành lập vương triều Nguyễn đến sự đảo lộn nhận thức về triều đại này trong giai đoạn vừa qua
Như bao triều đại khác tại Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, vương triều Nguyễn cũng đã được thành lập, phát triển và lụi tàn theo nhịp phế hưng của dòng chảy lịch sử dân tộc và theo đà trôi xuôi man mác của thời gian. Với thời gian làm chủ đất nước dài ngắn khác nhau, triều đại nào cũng có ưu nhược điểm, mặt tích cực và mặt tiêu cực, không nhiều thì ít. Tuy nhiên, sự đánh giá về về những mặt này đối với vương triều Nguyễn có vẻ đặt biệt hơn so với các triều đại khác trong lịch sử nước ta. Đặc biệt ở chỗ người đời chưa có được sự nhất trí trong nhận thức và sự giống nhau trong quan điểm. Chẳng hạn như nếu có người cho rằng nhờ có nhà Nguyễn nên dân tộc ta mới có được một đất nước Việt Nam rộng lớn và hoàn chỉnh như ngày nay, thì kẻ khác lại lên án triều Nguyễn là một triều đại “bán nước” và “cực kỳ phản động”.
Đứng trước tình trạng dị biệt trong việc đánh giá về công và tội của triều đại này như thế, trong khoảng vài thập niên qua, kể từ khi Nhà nước đưa ra chính sách đổi mới trên mọi phương diện, các cơ quan liên quan đến ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn, nhất là ở phía Nam, đã tổ chức cả chục cuộc Hội thảo Khoa học để cố gắng rút ngắn dần khoảng cách trong nhận định của giới sử học và văn hóa học về vương triều Nguyễn. Chúng tôi may mắn từng được tham dự hầu hết các cuộc Hội thảo ấy và nhận thấy kết quả chung là tương đối khả quan mặc dù chuyển biến trong nhận thức của một số người vẫn còn hơi chậm vì định kiến ăn sâu có sẵn từ trước.
Nay, để góp phần làm rõ hơn cho một số vấn đề liên quan, chúng tôi xin trình bày tham luận của mình với nhan đề “Từ sự thành lập vương triều Nguyễn đến sự đảo lộn nhận thức về triều đại này trong giai đoạn vừa qua”.
 I. Sự thành lập vương triều Nguyễn: 
Để đánh giá bất cứ sự kiện hay vấn đề nào, một trong những việc phải làm là cần tìm hiểu về nguồn gốc xuất hiện của nó, bao gồm hoàn cảnh chính trị xã hội và xuất xứ, lai lịch cũng như thân thế của những cá nhân, dòng họ hoặc cộng đồng có liên quan, tức là căn cơ của sự việc và động cơ cũng như phẩm chất của người trong cuộc.
Vương triều Nguyễn tuy chỉ mới được thành lập một cách chính thức vào đầu thế kỷ XIX, nhưng, sự chuẩn bị để đi đến kết quả ấy thì đã bắt đầu từ rất lâu trước đó, muộn lắm là cũng vào thế kỷ XVII.
Như một vùng đất “địa linh nhân kiệt”, Thanh Hóa là nơi phát tích của những dòng họ vua chúa nổi tiếng trong thời kỳ lịch sử trung cận đại Việt Nam: vua Lê, chúa Trịnh, vua chúa nhà Nguyễn. Nhưng, lịch sử thật trớ trêu. Vì quyền lợi riêng tư, chính những dòng họ đồng hương này có lúc đã trở nên thù địch, muốn loại trừ nhau để tranh bá đồ vương. Bi kịch ấy đã diễn ra sau khi nhà Mạc chiếm ngôi vua Lê vào năm 1527. Từ đó, sự phân cực quyền lực trên chính trường đầy rối ren ở đất Bắc giữa các dòng họ Mạc, Lê, Trịnh, Nguyễn và câu nói chỉ đường đầy hấp dẫn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” đã đẩy đưa Đoan Quận công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận Hóa năm 1558, rồi kiêm nhiệm xứ Quảng Nam năm 1570. 
Đây là những mốc thời gian đáng ghi nhớ trong quá trình hình thành và phát triển của lãnh thổ Đàng Trong. Mãi cho đến khi gần lìa đời vào năm 1613, Nguyễn Hoàng còn dặn Nguyễn Phúc Nguyên, người con sắp lên kế vị mình, rằng: “Đất Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang và sông Gianh hiểm trở, phía nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời” (1). 
Bằng chính sách mềm dẻo và chiến lược khôn khéo được lòng dân, chúa Tiên Nguyễn Hoàng và các thế hệ chúa Nguyễn kế vị ông đã tiếp tục thực hiện cuộc Nam tiến của dân tộc khởi đầu từ thời Lý, trải qua các triều đại nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê, và cơ bản hoàn thành sứ mạng lịch sử cao cả này để mở ra một đất nước Đại Việt tương đối hoàn chỉnh vào giữa thế kỷ XVIII (Xem Sơ đồ Nam tiến thời các chúa Nguyễn đính kèm).
Tất nhiên, đến bấy giờ, sông Gianh vẫn còn là nhát dao oan nghiệt chia cắt đất nước thành Đàng Ngoài và Đàng Trong. Nhưng, một Tiến sĩ sử học người nước ngoài gần đây khi nghiên cứu về “Xứ Đàng Trong” thời ấy, đã viết rằng: “Chỉ trong vài trăm năm, người Việt Nam đã tạo ra được một Việt Nam khác về cả lãnh thổ lẫn nhân lực”, tạo ra được một “vùng đất mới”, một xứ “Đàng Trong hội nhập và sáng tạo”, “hoàn cảnh lịch sử đã đặt dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 17 và 18 ở Đàng Trong có cơ hội để phát triển tính linh hoạt về mặt văn hóa, tạo nên những truyền thống mới”, “Đàng Trong đã thành công trong vai trò là một động cơ của sự thay đổi tại Việt Nam trong suốt hai thế kỷ, kéo trọng tâm văn hóa, kinh tế và chính trị của cả nước xuống phía nam. Không có hai thế kỷ này của Đàng Trong, cuộc Nam tiến hẳn đã không thành” (2).
Trong hai thế kỷ ấy, Đàng Trong đã được đặt dưới sự lèo lái của 9 đời chúa Nguyễn sau đây (2):
 Stt  Huý danh                 Công thụy        T/gian trị vì     Miếu hiệu truy tôn
1 Nguyễn Hoàng               Chúa Tiên        1558-1613       Thái tổ Gia dũ Hoàng đế
2 Nguyễn Phúc Nguyên    Chúa Sãi           1613-1635      Hy tông Hiếu văn Hoàng đế
3 Nguyễn Phúc Lan           Chúa Thượng   1635-1648      Thần tông Hiếu chiêu Hoàng đế
4 Nguyễn Phúc Tần           Chúa Hiền         1648-1687     Thái tông Hiếu triết Hoàng đế
5 Nguyễn Phúc Thái          Chúa Nghĩa       1687-1691      Anh tông Hiếu nghĩa Hoàng đế
6 Nguyễn Phúc Chu          Quốc chúa         1691-1725     Hiển tông Hiếu minh Hoàng đế
7 Nguyễn Phúc Chú           Ninh vương       1725-1738     Túc tông Hiếu ninh Hoàng đế
8 Nguyễn Phúc Khoát        Võ vương          1738-1765     Thế tông Hiếu võ Hoàng đế
9 Nguyễn Phúc Thuần       Định vương       1765-1775     Duệ tông Hiếu định Hoàng đế
 
Tuy nhiên, theo bước thăng trầm của lịch sử mọi triều đại, ngai vàng của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã bị lung lay ngay sau cái chết của chúa Nguyễn Phúc Khoát vào năm 1765.
Từ đó, Quốc phó Trương Phúc Loan, một con người vừa tham quyền vừa tham tiền, đã khuấy động cả triều đình Phú Xuân. Bằng mọi thủ đoạn gian ác, ông đưa hoàng tử thứ 16 của vị chúa thứ 8 là Nguyễn Phúc Thuần mới 11 tuổi còn trẻ dại lên nối ngôi để lợi dụng. Sự lộng quyền của Trương Phúc Loan đã làm thất nhân tâm từ Trung ương đến địa phương, làm cho bộ máy cai trị của nhà chúa yếu kém dần và lâm vào tình trạng bị “dột từ trên nóc dột xuống”.
Đó chính là lý do khiến ba anh em nhà Tây Sơn nổi dậy ở Quy Nhơn vào năm 1771, chống lại chính quyền sở tại và mở rộng ảnh hưởng ra ở các địa phương lân cận. Với chiêu bài “phù Nguyễn diệt Trương”, phong trào khởi nghĩa này nhắm đến mục tiêu trước mắt là mang lại sự công bằng và no ấm cho người nghèo trong xã hội.
Biến động chính trị ấy lại trở thành cái cớ để chúa Trịnh Sâm ở Đàng Ngoài vận dụng sách lược “đục nước béo cò” bằng cách sai lão tướng Hoàng Ngũ Phúc kéo hàng vạn quân vượt sông Gianh vào Phú Xuân lấy cớ diệt trừ Trương Phúc Loan và xin mượn đường đi thẳng qua bên kia đèo Hải Vân để tiêu diệt “loạn” Tây Sơn giùm cho nhà Nguyễn. Tất nhiên, triều đình Phú Xuân thừa biết âm mưu lợi dụng cơ hội ấy, cho nên bố trí một phòng tuyến để đối phó. Nhưng, lực lượng chống chọi quá yếu. Bắc quân tiến đánh Đô thành Phú Xuân, chúa tôi họ Nguyễn đã phải xuống thuyền di tản vào Nam để lánh nạn và chờ dịp khôi phục cơ đồ.
Sau khi làm chủ vùng đất Thuận Hóa vào năm 1775, quân Trịnh vượt qua đèo Hải Vân và tạo ra một liên minh bất đắc dĩ với lực lượng Tây Sơn để tìm cách tiêu diệt hẳn triều đình lưu vong của chúa Nguyễn Phúc Thuần ở tận trong Nam. Chiếm cứ Quảng Nam trong một thời gian ngắn, quân Trịnh rút về Thuận Hóa. Dù liên minh vừa nói bị đổ vỡ, nhưng quân Trịnh vẫn làm chủ được vùng Thuận Hóa - Phú Xuân cho đến năm 1786.
Đây là thời điểm phong trào Tây Sơn đã lớn mạnh. Hoàng đế Thái Đức Nguyễn Nhạc cử bào đệ là Nguyễn Huệ kéo quân từ Qui Nhơn ra đánh chiếm Phú Xuân. Chiến thắng trận này, ông đã dùng mưu nhiều hơn là dùng sức. Quân Trịnh đại bại, chỉ còn lại một ít tàn binh chạy trốn ra Bắc. Thuận Hóa - Phú Xuân lại thêm một lần đổi chủ. Sẵn đà chiến thắng, Nguyễn Huệ tiếp tục tiến quân ra Bắc với chiêu bài “diệt Trịnh phù Lê”. Thành công theo dự kiến, ông đã tiến thêm một bước trong việc xóa bỏ ranh giới sông Gianh từng chia cắt đất nước ra làm hai miền từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Nguyễn Nhạc phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương đóng bản doanh tại Phú Xuân để canh giữ địa bàn từ Thuận Hóa trở ra.
Năm 1788, để duy trì cái ngai vàng ọp ẹp của mình, nhà Lê cầu viện Trung Hoa và Tôn Sĩ Nghị đã kéo 29 vạn quân Thanh sang Thăng Long chuẩn bị loại bỏ nhà Tây Sơn. Đứng trước tình hình “dầu sôi lửa bỏng” ấy, Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng đế với niên hiệu Quang Trung, mở cuộc Bắc phạt, và với chiến thuật thần tốc, chỉ sau 5 tuần lễ, đã đánh tan quân Thanh ở Thăng Long vào đầu xuân năm Kỷ dậu (1789). Trong quãng đời làm tướng và làm vua của mình, đây là công trạng to lớn và sáng ngời nhất của vị anh hùng dân tộc. Tuy nhiên, vua Quang Trung chết vì bệnh quá sớm giữa lúc mới 40 tuổi vào năm 1792. Sự chia rẽ trong gia đình nhà Tây Sơn vốn manh nha từ trước, nay có dịp bộ lộ rõ hơn, sự kế vị của vua Cảnh Thịnh lúc 10 tuổi (4) và sự mâu thuẫn giữa một số quan tướng đương thời đã gây ra tình trạng nội bộ lủng củng cho triều đại, ngay cả tại triều đình Phú Xuân. Tình trạng này làm cho nhà Tây Sơn ngày càng suy yếu.
Đây là cơ hội để cho lực lượng lưu vong của hậu duệ các chúa Nguyễn từ trong Nam tiến dần ra khôi phục cơ đồ.
Trở lại với diễn biến lịch sử vào đầu năm 1775 tại Thuận Hóa khi quân Trịnh vào đánh chiếm xứ này. Trong nhóm người thuộc triều đình chúa Nguyễn phải bỏ thành Phú Xuân đi tị nạn vào thời điểm ấy, có một cậu bé mới 13 tuổi tên là Nguyễn Phúc ánh (sinh năm 1762). Cậu bé này là con của cố thế tử Nguyễn Phúc Côn (còn đọc là Luân: 1733-1765) và là cháu nội của chúa Nguyễn Phúc Khoát; tuy còn trẻ tuổi, nhưng trên quá trình sống lưu vong, đã nuôi dưỡng ý chí “khắc phục cựu kinh” của tổ tiên mình một cách bền bỉ.
Vào thời gian cuối đời, chúa Nguyễn Phúc Khoát có ý định lập người con trai thứ 2 là Nguyễn Phúc Côn làm thế tử, vì người con đầu là Nguyễn Phúc Chương đã chết sớm vào cuối năm 1763. Nhưng khi chúa vừa qua đời thì quyền thần Trương Phúc Loan thay đổi di chiếu, phế bỏ hoàng tử Côn, lập mưu bắt giam vào ngục và đưa hoàng tử thứ 16 là Nguyễn Phúc Thuần mới 11 tuổi lên kế vị để dễ bề khuynh loát như trên đã nói. Trong mấy tháng bị giam giữ, hoàng tử Côn lo buồn mà sinh bệnh, đến khi về nhà thì mất, cũng vào năm 1765.
Mười năm sau đó, đoàn người lưu vong theo chúa Nguyễn Phúc Thuần vào tá túc trong một thời gian ngắn ở Quảng Nam, rồi vượt biển vào Gia Định năm 1776. Tại đây, họ đã tập hợp được một lực lượng trung thành với các chúa Nguyễn đi theo phò tá, trong đó có Mạc Thiên Tứ, Đỗ Thanh Nhân ... Bấy giờ, chúa Nguyễn Phúc Thuần giao cho Nguyễn Phúc ánh giữ chức Chưởng sứ, thường cùng ông bàn tính việc quân. Nhưng, năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân từ Qui Nhơn vào đánh Gia Định, chúa tôi nhà Nguyễn phải chạy xuống Định Tường, Cần Thơ, rồi Long Xuyên. Quân Tây Sơn đuổi theo, bắt được chúa và đoàn tuỳ tùng, họ đều bị giết, chỉ trừ Nguyễn Phúc ánh là người đã kịp rời đất liền ra trốn tránh ở đảo Thổ Châu. Sau đó, ông trở về Long Xuyên tụ tập được một số người thân tín và tái khởi binh đánh chiếm lại Sài Gòn. Năm 1778, ông được các tướng tá dưới trướng tôn lên làm Đại nguyên soái quyền coi việc nước. Năm ấy, ông mới 16 tuổi (17 tuổi ta). Hai năm sau, ông được tôn lên ngôi vương, cũng tại Sài Gòn (5). “Rồi từ đó, suốt 24 năm trời, nghĩa là từ 1778 đến 1802, Nguyễn [Phúc] ánh đã liên tiếp chống lại kẻ thù họ Nguyễn. Trong thời gian đó, khi thắng, khi bại, khi chơi vơi trên mặt biển, khi lưu lạc đất người, ông không bao giờ nản chí, luôn luôn theo đuổi nghĩa lớn, và nhờ đó, cuối cùng gây dựng được cơ đồ cũ, thống nhất được giang sơn, ... [lên ngôi] với đế hiệu Gia Long, cai trị trên một lĩnh thổ to rộng hơn bao giờ hết về trước, và lĩnh thổ này, chính ông đã đặt cho tên Việt Nam” (6).
Trước đó, đã có khi dòng máu của thời các chúa Nguyễn suýt bị đứt mạch bởi quân Trịnh rồi nhà Tây Sơn, nhưng, do có ý chí sắt đá của một hậu duệ là Nguyễn Phúc ánh mà nó vẫn tiếp tục chảy và có ảnh hưởng đến lịch sử dân tộc Việt Nam trong một thời gian khá dài về sau. Từ một kẻ lưu vong không còn một mảnh đất để cắm dùi, ông đã kiên trì giữ gìn huyết thống và uy tín của dòng họ, nên đã khôi phục được cơ đồ cho tổ tiên và thống nhất đất nước sau 275 năm nội chiến (1527-1802).
Trong “Việt Nam sử lược”, tác giả Trần Trọng Kim đã dành ra một chương với tiêu đề “Nguyễn vương nhất thống nước Nam” để khẳng định Nguyễn Phúc ánh là người đã “đem giang sơn về một mối, nam bắc một nhà, làm cho nước ta thành một nước lớn ở phương nam” (7).
Li Tana thì viết: “... Chính đồng bằng sông Cửu Long đã cứu họ Nguyễn. Đối với Nguyễn [Phúc] ánh, nó trở thành một chân trời khác, một căn cứ đầy tiềm lực của đồng bằng sông Cửu Long, cách riêng, thóc gạo tại đây, đã giúp Nguyễn [Phúc] ánh có thể đánh bại Tây Sơn ..., thiết lập triều Nguyễn và một quốc gia thống nhất mới” (8).
Nếu nói cho công bằng thì sự thống nhất quốc gia vào đầu thế kỷ XIX không phải là công riêng của ông vua đầu triều Nguyễn, mà nó đã được đặt sẵn nền tảng trước đó trên dưới hai thập nên với việc xóa bỏ ranh giới sông Gianh khi quân Trịnh mở cuộc Nam chinh vào đầu năm 1775 và nhất là lúc hoàng đế Quang Trung mở cuộc Bắc phạt vào năm 1788 như trên đã nói. Và, việc thiết lập vương triều Nguyễn cũng đã dựa trên nền tảng của một số triều đại tiền nhiệm trong dòng chảy của lịch sử dân tộc, mà căn cơ đặc biệt và quan trọng nhất của vương triều này vẫn là thời các chúa Nguyễn.
Gia Long là vị vua khai sáng vương triều. Nó kéo dài 143 năm (từ 1802 đến 1945) qua 13 đời vua; xin liệt kê như sau:  
 Stt       Huý danh                     Niên hiệu         T/gian trị vì            Miếu hiệu
1   Nguyễn Phúc Ánh                Gia Long           1802-1819           Thế tổ Cao Hoàng đế
2   Nguyễn Phúc Đảm                Minh Mạng        1820-1840          Thánh tổ Nhân Hoàng đế
3   Nguyễn Phúc Miên Tông       Thiệu Trị           1841-1847          Hiến tổ Chương Hoàng đế
4   Nguyễn Phúc Hồng Nhậm     Tự Đức             1848-1883          Dực tông Anh Hoàng đế
5   Nguyễn Phúc Ưng Chân       Dục Đức            1883 (3 ngày)    Cung tông Huệ Hoàng đế
6   Nguyễn Phúc Hồng Dật         Hiệp Hòa           1883 (4 tháng)      (Phế đế)
7   Nguyễn Phúc Ưng Đăng       Kiến Phúc           1884                  Giản tông Nghị Hoàng đế
8   Nguyễn Phúc Ưng Lịch         Hàm Nghi            1885                      (Xuất đế)
9   Nguyễn Phúc Ưng Đường   Đồng Khánh       1886-1888          Cảnh tông Thuần Hoàng đế
10  Nguyễn Phúc Bửu Lân        Thành Thái         1889-1907               (Phế đế)
11  Nguyễn Phúc Vĩnh San        Duy Tân            1907-1916                (Phế đế)
12  Nguyễn Phúc Bửu Đảo       Khải Định           1916-1925           Hoằng tông Tuyên Hoàng đế
13  Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy      Bảo Đại             1926-1945 (?)
Nay nhìn lại lịch sử 143 năm trải qua 13 đời vua ấy, các nhà sử học dễ nhất trí với nhau rằng có thể chia đại khái ra làm hai giai đoạn. Gia đoạn độc lập tự chủ tồn tại dưới đời các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và một phần đời vua Tự Đức. Nhưng, sau cái chết của vị vua thứ tư này thì thực dân Pháp đã có thể gây áp lực trực tiếp lên chính triều đình Huế, buộc Nam triều phải ký Hiệp ước Patenôtre (6-6 - 1884) và tước đoạt nền độc lập của Việt Nam. Mặc dù ngay sau đó, ngọn lửa giành lại chủ quyền có loé lên vào năm 1885 dưới thời Hàm Nghi, rồi Thành Thái và Duy Tân, nhưng lực bất tòng tâm, Kinh đô thất thủ, Việt Nam hoàn toàn bị đặt dưới quyền cai tị của người Pháp. Vương triều Nguyễn tuy không bán nước nhưng đã để mất nước (cho  đến năm 1945). Tất nhiên, đây là khó khăn chung của các nước nhược tiểu mà triều đình nhà Nguyễn không thể vượt qua được thời đại trong tình hình Đông - Tây bấy giờ. Nhược điểm này chính là lý do mà một số người đã nêu ra để báng bổ vương triều ấy một cách nặng lời nếu không nói là quá đáng. Chủ yếu là do nhận thức phiến diện và thái độ cực đoan của một gian đoạn lịch sử.
II. Sự đảo lộn nhận thức về triều Nguyễn trong giai đoạn vừa qua: 
Trong khi đang viết bài tham luận này, chúng tôi đọc được một cuộc phỏng vấn ngắn của nhà báo Minh Thi đối với nhà thơ Nguyễn Duy đăng trên báo Lao Động số ra ngày 16-7-2008 với nhan đề “Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ”. Đây là câu thơ mà Nguyễn Duy dùng để mở đầu cho kịch bản phim “Đi tìm dấu tích 3 vua lưu đày” đang được Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện. Nội dung cuộc phỏng vấn rất có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Khi trả lời câu hỏi tại sao lại phải “khơi dòng lịch sử bị nghẽn” vào thời điểm này, nhà thơ Nguyễn Duy thổ lộ: “Lịch sử có cách đi của nó. Cho đến bây giờ, nhiều người biết rằng nhà Nguyễn có công lớn đối với nước nhà, nhưng không hiểu tại sao và từ lúc nào, lại bị biến dạng, bị hạ thấp một cách oan sai về thang bậc giá trị lịch sử và văn hóa. Cho đến nay, đã có 10 hội thảo về nhà Nguyễn, nhưng chỉ là hội thảo khu vực, để nhìn nhận về một góc của vấn đề lịch sử thời ấy. Sắp tới, vào tháng 10, lần đầu tiên mới có một cuộc hội thảo quốc gia mang tính quốc tế do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam phối hợp với tỉnh Thanh Hóa tổ chức với chủ đề “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn”, nhằm kỷ niệm 450 năm ngày Chúa Nguyễn Hoàng đi mở đất. Cùng với hội thảo này, hy vọng bộ phim của chúng tôi có đóng góp một chút gì đó, dù rất nhỏ, xây dựng một cái nhìn mới về nhà Nguyễn. Bởi lẽ, nếu không công tâm với lịch sử thì sẽ không thực thi được công bằng xã hội... Minh bạch với quá khứ là phẩm chất tối thiểu của đạo lý” (9).
Lời thổ lộ vừa nêu tuy ngắn gọn nhưng hàm chứa một số nội dung liên quan đến cuộc hội thảo này, trong đó có thắc mắc “không hiểu tại sao và từ lúc nào, [nhà Nguyễn] lại bị biến dạng, bị hạ thấp một cách oan sai về thang bậc giá trị lịch sử và văn hóa”.
Để trả lời phần nào cho thắc mắc ấy, chúng tôi xin nêu ra một cách cụ thể hai trong những tư liệu chính thống được viết với định kiến của một giai đoạn trước đây.
- Vào năm 1961, ngay trước khi cho ấn hành tập đầu tiên (trong số 38 tập) của bản dịch bộ “Đại Nam thực lục”, Viện Sử học đã viết “Lời giới thiệu” về bộ sách, trong đó có những nhận định như sau:
  “Những sự kiện lịch sử xảy ra trong khoảng thời gian từ Nguyễn Hoàng đến Đồng Khánh [1558-1888], những công việc mà các vua [chúa] nhà Nguyễn đã làm trong khoảng thời gian 330 năm ấy, ... tự chúng tố cáo tội ác của nhà Nguyễn trước lịch sử của dân tộc chúng ta.
  “Theo lệnh của các vua nhà Nguyễn, bọn sử thần của nhà Nguyễn làm công việc biên soạn “Đại Nam thực lục” đã cố gắng rất nhiều để tô son vẽ phấn cho triều đại nhà Nguyễn ...
Nhưng bọn sử thần ấy vẫn không che giấu nổi các sự thật của lịch sử. Dưới ngòi bút của họ, sự thật của lịch sử ... vẫn phơi bày cho mọi người biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không những chúng đã cõng rắn cắn gà nhà, mà chúng còn cố tâm kìm hãm, đày đọa nhân dân Việt Nam trong một đời sống tối tăm đầy áp bức” (10).
- Sau đó đúng 10 năm, vào năm 1971, Uỷ ban Khoa học Xã hội đã biên soạn và cho ấn hành tập I của bộ “Lịch sử Việt Nam” gồm 8 chương mà chương cuối cùng dành để viết về phong trào Tây Sơn và vương triều Nguyễn. Trong chương này, các tác giả của nó đã lên án triều Nguyễn như sau:
“Triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng dựng lên bằng một cuộc chiến tranh phản cách mạng nhờ thế lực xâm lược của người nước ngoài. Gia Long lên làm vua lập ra triều Nguyễn sau khi đàn áp cuộc chiến tranh cách mạng của nông dân ... Triều Nguyễn là vương triều tối phản động  Bản chất cực kỳ phản động của chế độ nhà Nguyễn bộc lộ rõ ngay từ đầu qua những hành động khủng bố, trả thù vô cùng đê hèn của Nguyễn ánh đối với các lãnh tụ nông dân và những người thuộc phái Tây Sơn kể cả phụ nữ và trẻ em ...
“Chính quyền nhà Nguyễn hoàn toàn đối lập với nhân dân và dân tộc. Nó chỉ đại diện cho quyền lợi của những thế lực phong kiến phản động, tàn tạ, nó không có cơ sở xã hội nào khác ngoài giai cấp địa chủ. Vì vậy, các vua nhà Nguyễn từ Gia Long (1802-1819) đến Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1847-1883) đều rất sợ nhân dân và lo lắng đề phòng các hành động lật đổ. Chính vì kiếp nhược trước phong trào nhân dân mà nhà Nguyễn không dám đóng đô ở Thăng Long, phải dời vào Huế”. Sau hai tiểu mục “Nhà Nguyễn khôi phục chế độ phong kiến phản động” và “Chế độ quân chủ chuyên chế cực kỳ phản động” mang nội dung đại khái như vừa trích dẫn, các tác giả của chương sách này tiếp tục phê phán vương triều Nguyễn về những lĩnh vực khác với các tiêu đề lớn nhỏ, như “Tăng cường bộ máy đàn áp”, “Bộ máy quan lại hủ lậu mục nát”, “Chế độ áp bức bóc lột nặng nề”, “Chính sách kinh tế lạc hậu và phản động”, “Chính sách đối ngoại mù quáng”, v.v... (11).
Chưa hết, trong tập II của bộ “Lịch sử Việt Nam” xuất bản vào năm 1985, các tác giả thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội còn trở lại “đánh” triều Nguyễn bằng những từ ngữ sau đây: “triều đình nhà Nguyễn thối nát và hèn mạt” (tr. 11), “Vương triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn” (tr. 15), “cực kỳ ngu xuẩn” (tr. 17), “tên chúa phong kiến bán nước số 1 là Nguyễn ánh... Nguyễn ánh cầu cứu các thế lực ngoại bang giúp hắn thỏa mãn sự phục thù giai cấp” (tr. 29), v.v... (12).
Đọc “Lời giới thiệu” trong bản dịch bộ “Đại Nam thực lục” và học các chương mục lịch sử chính thống với những lời lẽ như vừa nêu, độc giả và học sinh sinh viên trong cả nước chắc hẳn đều phải phẫn nộ và căm thù các vua chúa nhà Nguyễn đến tận xương tuỷ! Có một điều ghi rõ trong “Lời nhà xuất bản” ở tập II của bộ “Lịch sử Việt Nam” là sách này đã được “viết theo đề cương” và “tư tưởng chỉ đạo” từ trên xuống (13). Nghĩa là các tác giả đã viết theo quan điểm lập trường của lãnh đạo chứ không phải viết theo tư duy sử học của cá nhân.  
Nhưng, cũng ngay trong những năm của thập niên 1980, đã có những sử gia, những nhà nghiên cứu, từng đưa ra một cách công khai và thẳng thắn quan điểm riêng của mình về triều Nguyễn. Chẳng hạn như vào năm 1987, Giáo sư Trần Quốc Vượng đã viết trên tạp chí Sông Hương rằng:
“Nhưng tôi không thích nhà làm sử cứ theo ý chủ quan của mình và từ chỗ đứng của thời đại mình mà chửi tràn chửi lấp toàn bộ nhà Nguyễn cho sướng miệng và ra vẻ “có lập trường”(14).
Có thể xem đây là một trong những người đầu tiên phát biểu ý kiến cần phải nhận thức lại một cách trung thực và khách quan về vương triều cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Trong ngót hai thập niên từ đó đến nay (1987-2008), nhiều cuộc hội thảo khoa học và nhiều công trình nghiên cứu đã dần dần đem lại một cái nhìn dễ chịu hơn chứ không còn gay gắt như trước đối với vương triều này. Chúng tôi hy vọng cuộc hội thảo được tổ chức ở Thanh Hóa, quê hương nhà Nguyễn, càng đẩy nhanh tiến độ nhận thức lại và cung cấp những cứ liệu lịch sử đầy đủ hơn để đánh giá một cách công bằng về vương triều ấy.
Nhìn chung, vấn đề nào cũng có hai mặt của nó, kể cả “tấm huy chương” mà một số sử gia, trong đó có các nhà bỉnh bút ở Quốc Sử Quán, Nội Các và Hàn Lâm Viện triều Nguyễn, đã gắn cho vua Gia Long nói riêng và vương triều Nguyễn nói chung. Nhưng, vì chính vua Gia Long là người muốn giành lại vương quyền cho dòng họ mình để thành lập triều Nguyễn với bất cứ giá nào, kể cả việc cầu viện ngoại bang, cho nên, con cháu ông sau đó đã phải trả một cái giá rất đắt khi quân đội thực dân Pháp đến xâm lược nước ta.
Dù sao, trong bài viết vừa nêu, Giáo sư Trần Quốc Vượng cũng đã đưa ra một nhận định đầy công tâm và rất chính xác: “Có thời Nguyễn, chúng ta mới có một Việt Nam hoàn chỉnh như ngày nay” (15).
Cuối cùng, chúng tôi xin cung cấp một mẩu tư liệu thực địa liên quan đến niềm tự hào của vị vua đầu triều Nguyễn khi ông vừa thống nhất sơn hà, mở ra một triều đại mới và bắt đầu tái thiết quốc gia. Mẫu tư liệu rất ngắn gọn, chỉ gồm 4 câu thơ ngũ ngôn, được khắc chạm để trang trí ở một liên ba nằm ngay trước ngai vàng đặt tại nội thất điện Thái Hoà trong Hoàng thành Huế. Toà cung điện vàng son lộng lẫy ấy vốn được xây dựng vào năm 1805 và tồn tại cho đến ngày nay. Bốn câu thơ được phiên âm như sau:
“Văn hiến thiên niên quốc,Xa thư vạn lý đồ.Hồng Bàng khai tịch hậu,Nam phục nhất Đường Ngu”.
 Tạm dịch:
Nước ngàn năm văn hiến,Vạn dặm một sơn hà.Từ Hồng Bàng khai quốc.Thịnh trị Việt Nam ta.Có thể xem đây là bản tuyên ngôn thống nhất quốc gia và độc lập dân tộc của vương triều Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX trong lịch sử nước nhà. 
Chú thích:
(1) Quốc Sử Quán triều Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, bản dịch của Viện Sử học, tập I (Tiền biên), NXB Sử học, Hà Nội, 1962, tr. 44.
(2) Li Tana, “Xứ Đàng Trong”, bản dịch của Nguyễn Nghị, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr. 36, 213, 214.
(3) “Đại Nam thực lục”, tập đã dẫn, tr. 27-264. Xem thêm: Vĩnh Cao và các cọng tác viên, “Nguyễn Phúc tộc thế phả”, NXB Thuận Hóa, Huế, 1995, tr. 101-199.
(4) Quốc Sử Quán triều Nguyễn, “Đại Nam liệt truyện”, bản dịch của Viện Sử học, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993, tập 2, tr. 530.
(5) “Đại Nam thực lục”, bản dịch đã dẫn, tập II, tr. 27-33.
(6) Nguyễn Phương, “82 năm Việt sử 1802-1884”, Đại học Sư phạm Huế xuất bản, Huế, 1963, tr. 13-14.
(7) Trần Trọng Kim, “Việt Nam sử lược”, NXB Tân Việt, in lần thứ 7, Sài Gòn, 1964, tr. 385-405.
(8) Li Tana, sách đã dẫn, tr. 219.
(9) Minh Thi, “Nhà thơ Nguyễn Duy: Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ”, báo Lao Động, số 161/2008, ngày 16-7-2008, tr. 5.
(10) “Lời giới thiệu” của Viện Sử học về bộ “Đại Nam thực lục”, bản dịch đã dẫn, tập I, tr. 6-7.
(11) Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, “Lịch sử Việt Nam”, tập I, NXB KHXH, Hà Nội, 1971, tr. 368-386 (In 300.500 cuốn).
(12) Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam, “Lịch sử Việt Nam”, tập II, NXB KHXH, Hà Nội, 1985, tr. 7-33 (In 15.500 cuốn).
(13) Sách vừa dẫn, tr. 7.
(14) Trần Quốc Vượng, “Vài suy nghĩ về vị thế xứ Huế và vị thế lịch sử của nó”, tạp chí Sông Hương, Huế, số 25, tháng 5-6 năm 1987, tr. 75.
(15) Trần Quốc Vượng, bài đã dẫn, tr. 74. 
 
Phan Thuận An
(Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế).
Nguồn: http://hoisuhoc.vn/thongtinsuhoc.asp?id=281

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây