NHẤT THỐNG SƠN HÀ ĐẠI CÁO

Thứ sáu - 26/08/2016 21:10 653 0
Xin phép mệ Nguyen Phuc Vinh Ba cho đăng tải lại bài ni, vì lần mô đọc nghe cũng đã lỗ tai, sướng lỗ miệng quá trời luôn.
NHẤT THỐNG SƠN HÀ ĐẠI CÁO
 
Tiểu dẫn: Trộm nghĩ Đại Nam Thực lục ghi chép công đức của Thế Tổ Cao hoàng đế là quá đầy đủ. Tuy nhiên, có được một áng văn chương để tóm lược khá sinh động và sâu sắc công nghiệp muôn đời của Đức Cao Hoàng, đó cũng là việc nên làm, trước để tỏ lòng biết ơn tiên tổ, sau để lưu lại cho các thế hệ sau tiện đọc. Đó là lý do mà kẻ hậu học vốn là miêu duệ của Ngài viết bài cáo này.
Trẫm thường nghe:
Thừa Thiên Mệnh tất làm vua;
Cứu Lương Dân thời được nước.
Gẫm mới hay, đạo lý ấy trăm năm phù kẻ nghĩa nhân;
Suy thì thấy, hoá công kia muôn kiếp hộ người đảm lược.
Nay mừng ngôi cửu tộ vững vàng;
Vẫn nhớ thuở tẩu bôn xuôi ngược.
Giòng huyết thống đã đành dạ hiếu, xông pha chốn mũi tên hòn đạn, nào tiếc máu xương;
Phận truy tuỳ cam giữ chữ trung, lăn lộn nơi suối độc rừng thiêng, cũng liều sức vóc.
Lệnh thông tri bách tính, dẫu người còn kẻ mất, cho dân binh thấy rõ công huân;
Ban đại cáo nhất văn, khắp âm dưới dương trên, để tông tộc chung chia hoạ phúc
Nhớ năm xưa,
Tránh quyền thần, Tiên Chúa 1 vào Thuận Hoá, mở trời Nam xây dựng sơn hà;
Thêm thổ địa, Sãi Vương 2 lấy Mô Xoài, bỏ phương Bắc khước từ phong sắc 2.
Võ thì có Hữu Tiến, Hữu Dật,… công lao đời mãi sáng thanh bi;
Văn thì là Phúc Kiều, Duy Từ,… tên tuổi sử còn lưu thực lục.
Khai khẩn đồng hoang núi thẳm, mồ hôi nước mắt kể biết mấy sông;
Giao phong pháo nổ luỹ tan, xương cốt máu me đổ tràn từng cuộc.
Hơn bốn mươi năm Bắc Nam nội chiến, kìa Bố Chánh còn lưu vết đạn, kỳ được thua nghĩ bấy đau thương;
Qua sáu, bảy đợt Nguyễn Trịnh phân tranh, nọ Luỹ Thầy vẫn rõ dấu gươm, trường thắng bại thấy thừa tức bực.
Đến Hiền Vương 3 can qua đã dứt, Trịnh Tạc đành thu quân cam hận, dòng Linh Giang chia lãnh phận trong ngoài;
Tiếp Quốc Chúa 4 cương giới rộng thêm, Mạc Cửu đà qui thuận xưng thần, đất Hà Tiên thành địa đầu gấm vóc.
Biên Hoà, Gia Định lưu dân vào lập nghiệp, rộn ràng chợ búa sát san Châu Đốc, Tân Châu nông binh đến khẩn hoang, nhộn nhịp xóm làng đông đúc.
Công nghiệp bao đời đã tỏ, ân uy văn võ chỉnh tề;
Xa thư một cõi thành riêng, ấm trạch quan dân sung túc.
Đúc Nguyễn ấn 5 lưu tôn truyền tử, sáng lạn triều nghi;
Xưng Võ vương 6 định phận chính danh, rỡ ràng uy lực.
Những tưởng dân an quốc thái, như lời sấm Trạng, vạn đại dung thân 7;
Ai hay ấu chúa lộng thần, tựa tích sử Nam,8 nhất thời vong quốc.
Nghĩ mà giận,
Trương Phúc Loan gian tham, loạn quyền ép chúa, gây nhiễu nhương trăm họ tai nàn.
Hoàng Ngũ Phúc điêu toa, thừa thế vượt sông, chiếm kinh phủ một triều tan tác.
Định vương Thuần bôn đào Gia Định, chiêu binh hầu khôi phục giang sơn;
Hoàng tôn Dương cố thủ Quảng Nam, thất thế trúng âm mưu khấu tặc.
Đất phương Nam lại anh hùng tụ nghĩa, kìa kìa đoàn lữ Tứ Nhân;
Cõi miền Trung thêm thảo đảng tung hoành, nọ nọ đệ huynh Biện Nhạc.
Lữ cùng Huệ thực đà quá dữ, thuỷ bộ hãm vây Gia Định, chưa mấy hồi thành lỡ binh tan;
Vương với Tôn 10 ơi bấy thảm thương, quân tướng rút tận Long Xuyên, chẳng bao chốc thân lìa hồn lạc.
Nghĩ mà xem,
Cơ nghiệp bao đời để lại, lẽ nào không dạ giữ gìn;
Công huân các chúa còn đây, đâu dễ đành tâm bỏ mặc.
Từ Thổ Chu trở về báo hận, cường địch nào ngăn được thế Hiếu Quân 11;
Đến Gia Định thu lại địa bàn, chư tướng quyết vinh phong người Nhiếp Quốc.12
Đã thần tiên mấy phen phù hộ, xưa đỡ dạ bòn bon đất Quảng,13 nay nước ngọt biển cả dâng vua 14;
Thêm linh vật bao lượt cứu nguy, lúc nâng trâu cá sấu sông Vàm,15 khi kỳ đà đầu thuyền cản bước.16
Thế chẳng phải Trời cao chọn kẻ chăn dân;
Nên mới cho Đất hiểm rèn người trừ giặc.
Gian lao không xiết kể, rừng hoang đảo vắng rú sâu;
Đói khổ có thiếu gì, cơm nguội bần chua mắm ruốc.
Ngẫm thời bỉ vận, thoạt Côn Lôn rồi Gia Định, các ngươi bụng hẳn chưa quên;
Nhớ thuở sa cơ, nay Phú Quốc mai Xiêm La, riêng Trẫm lòng còn xót buốt.
Gan thay giặc Huệ năm lần 17 tiến đánh, binh hùm tướng cọp, hoá ra hữu lực vô công;
Giỏi thật binh Nam ba đợt 18 trả đòn, gươm ngắn giáo dài, nào kém trí mưu thao lược.
Bọn Nguyễn Lữ cong giò tuôn chạy, cơn khiếp run suy sụp lòng binh;
Chúa Bắc Bình nhắm mắt lìa đời, nỗi sợ hãi còn lưu câu trối.19
Thế Quang Toản càng ngày càng núng, quan tướng vương thần tranh quyền đoạt vị, 20 chẳng nề bách tính nguy an;
Triều Tây Sơn mỗi phút mỗi tàn, bá tôn huynh đệ xáo thịt nồi da, 21 chi kể tình thâm cốt nhục.
Lũ Nhạc Bảo thành Quy Nhơn thọ tử, 21 ngai Trung Ương giềng đứt mối tiêu;
Bọn Diệu Dũng đồng An Cựu tranh hùng, 20 phe Cảnh Thịnh tơ vò gút thắt.
Dân khát thái bình như con khát sữa, khản đặc tiếng kêu;
Nước trông minh chủ tựa hạn trông mưa, đỏ ong con mắt.
Thế nên,
Đại nghiệp công thành;
Giang sơn thống nhất.
Kẻ quy hàng kìa Đốc Sở, Văn Tham, kìa Văn Trương, Lê Chất,… treo tấm gương sáng loà ngọn đuốc, nên phò chân chúa minh vương;
Người trung nghĩa nào Phước Mân, Văn Tiếp, nào Võ Tánh, Tùng Châu,… xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, đâu sợ hoả hồng độc dược. 22
Dưới trướng Trẫm, danh thần mưu sĩ nào nhớ hết tên;
Theo cờ Nam, hào kiệt anh tài sao kê đủ mặt.
Cờ nhân nghĩa 23 rợp trời nam bắc, binh ta mỗi lúc mỗi đông;
Quân điếu phạt 24 vang rộn đông tây, thế địch càng ngày càng ngặt
Trận Cửa Eo, Quang Toản tan binh bại tẩu, vua tôi một lũ thất tha;
Thành Nghệ An, Diệu Xuân 25 thúc giáp phúc tâm, 26 quan tướng mấy thằng xơ xác.
Thừa thế lũ tràn thác đổ, binh triều đánh đâu thắng đó, tiến chiếm Thanh Hoá, Sơn Nam;
Kinh hồn cung rớt đao rơi, giặc nguỵ chui nọ lủi kia, chạy dồn Hải Dương, Kinh Bắc.
Vượt Nhị Hà mắt hoa óc bủn, tham sống sợ chết, bọn Cảnh Thịnh buông giáo qui hàng;
Đến Phượng Nhãn gối mỏi chân run, kiệt sức cùng đường, bầy Thuỳ Tú 27 trở gươm tự sát.
Năm Tân Dậu an dân Thuận Hoá, binh như thần nương ngọn gió trời; 23
Đến Nhâm Tuất thu phục Thăng Long, giặc tựa chuột sắp tràn mặt đất..
Mừng thay,
Can qua đã tận, càn khôn hạo khí đầy trời;
Loạn lạc qua rồi, nhật nguyệt quang minh toả sắc.
Tiệc khao công thoả lòng tướng sĩ, chuyện đời báo đáp, nêu gương lành cho trăm cõi nhuần ân;
Lễ hiến phù 28 tỏ rạng vương uy, sự thế trả vay, nghiêm phép nước để muôn nhà khiếp phục.
Này Nam Vang nọ Vạn Tượng, vui mấy bên hoà hiếu lân bang;
Từ Cà Mau đến Nam Quan, đẹp một dãi cẩm hoa xã tắc.
Cơ thạnh trị mất rồi lại có, nay chốn chốn vui đời hoan lạc, chư khanh hãy phấn chí kiên tâm;
Nền thái bình khổ hết sang vui, để nơi nơi vang tiếng âu ca, các ngươi ráng tận trung nỗ lực.
Cầu tổ tông mãi che chở dài lâu;
Mong bách tính luôn giữ gìn vững chắc.
Nay đại cáo tứ phương
Hãy thanh tâm nhất độc.29
Khâm thử.
Nguyễn Phúc Vĩnh Ba phụng soạn. (Dựa theo Đại Nam thực lục của Nguyễn triều Quốc Sử quán và Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim)
Chú thích:
1. Tiên Chúa: Thái Tổ Hoàng Đế huý Nguyễn Hoàng, vị chúa Nguyễn thứ 1. Ngài đã tránh mưu hại của Trịnh Kiểm bằng cách xin vào trấn thủ Thuận Hoá.
2. Sãi Vương: Hy Tông Hoàng Đế huý Nguyễn Phúc Nguyên, vị chúa Nguyễn thứ 2. Ngài đã lập dinh điền ở Mô Xoài gần Bà Rịa và dùng kế của Đào Duy Từ trả lại sắc phong của vua Lê.
3. Hiền Vương: Thái Tông Hoàng Đế huý Nguyễn Phúc Tần, vị chúa Nguyễn thứ 4. Năm Nhâm Tý (1762) đã đẩy lui được trận chiến cuối cùng trong 07 lần giao tranh với họ Trịnh, kết thúc cuộc Nam Bắc phân tranh.
4. Quốc Chúa: Minh Vương huý Nguyễn Phúc Chu, vị chúa Nguyễn thứ 6.
5. Minh Vương cho đúc ấn “Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo” làm ấn truyền quốc, được dùng cho đến đời Thế Tổ Gia Long.
6. Năm Giáp Tý (1744) vị chúa Nguyễn thứ 8 Nguyễn Phúc Chu xưng Võ Vương, cho đúc Quốc Tỷ và dựng tông miếu.
7. Theo Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì Tiên Chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hoá lập sơn hà thì sẽ “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”.
8. Lê Hoàn cướp ngôi của Đinh Vệ Vương (6 tuổi), Lý Công Uẩn giành ngôi của con Lê Long Đỉnh (còn nhỏ), Thái sư Trần Thủ Độ cướp ngôi của Lý Chiêu Hoàng (8 tuổi), Hồ Quý Ly cướp ngôi của Trần Thiếu Đế (3 tuổi),…
9. Tứ Nhân tức Mạc Thiên Tứ và Đỗ Thành Nhân.
10. Vương với Tôn tức Định Vương Nguyễn Phúc Thuần, vị chúa Nguyễn thứ 9 và Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương bị giặc bắt giết tại Long Xuyên.
11. Đoàn quân mặc áo tang do Thế Tổ Nguyễn Phúc Ánh tái chiếm Gia Định, trả thù cho Định Vương và Hoàng tôn Dương.
12. Cuối năm Đinh Dậu (1777) sau khi chiếm lại Gia Định, chư tướng tôn Đức Thế Tổ lên làm Đại nguyên suý, Nhiếp quốc chính. Lúc này Ngài mới 17 tuổi.
13. Khi lưu lạc ở Quảng Nam, vua Gia Long đã ăn trái bòn bon chống đói. Ngày nay trái bòn bon vẫn còn vết lõm, tương truyền là dấu móng tay của Ngài.
14. Khi bị quân Tây Sơn truy đuổi. lênh đênh trên biển nhiều ngày, hết cả nước ngọt. Nhà vua mới khấn trời, chợt thấy dưới bể có dòng nước ngọt, múc uống mới khỏi chết khát.
15. Năm 1783 Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn truy đuổi, Ngài phải cỡi trâu qua sông Vàm Cỏ (Lật Giang). Nước chảy xiết, cuốn trâu đi. May thay một con cá sấu lớn nổi lên, nâng con trâu đưa Ngài sang sông.
16. Khi Nguyễn Phúc Ánh định đem quân thuỷ ra biển thì một con kỳ đà cản trước mũi thuyền. Nhờ thế nên ông mới thoát khỏi bẫy giăng của thuỷ quân Tây Sơn ngoài khơi.
17. Nguyễn Huệ đã 05 lần đánh Gia Định để diệt quân của Nguyễn Vương Ánh.
18. Nguyễn Phúc Ánh đã 03 lần đánh Quy Nhơn để trả đòn.
19. Trước khi mất, Nguyễn Huệ trăn trối rằng “Bọn ngươi nên cùng nhau giúp Thái tử sớm thiên đến Vĩnh đô (Nghệ An) để khống chế thiên hạ. Không thế thì quân Gia Định lại, bọn ngươi không có đất mà chôn đấy” ,
20. Võ Văn Dũng giết Bùi Đắc Tuyên, Trần Quang Diệu đánh Võ Văn Dũng, Quang Toản giết Lê Trung, Nguyễn Văn Huấn…
21. Quang Toản bức tử bác mình là Nguyễn Nhạc, và về sau giết anh họ Nguyễn Quang Bảo, con Nguyễn Nhạc.
22. Ngô Tùng Châu uống thuốc độc, Võ Tánh tự thiêu tại Quy Nhơn để tử thủ giữ chân quân chủ lực của Tây Sơn, hòng giúp Nguyễn Phúc Ánh thừa cơ chiếm Phú Xuân.
23. Dân chúng chán ngán triều Quang Toản hủ bại, mong mỏi Nguyễn Vương Ánh trừ bạo nên có câu hát “Lạy Trời cho cả gió nồm/ Để cho chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra”
24. Quân điếu phạt: Thương xót mà ra quân trị bọn có tội, dẹp giặc cứu lương dân.
25. Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân
26. Thúc giáp phúc tâm: Bó áo giáp, đổi lòng hàng địch.
27. Nguyễn Quang Thuỳ và Đô đốc Tú.
28. Vua Gia Long hành hình Quang Toản và anh em của Toản cùng các bầy tôi Tây Sơn như Bùi Thị Xuân. Ông còn quật mộ Thái Đức, Quang Trung để trả thù việc Nguyễn Huệ trước đó quật mộ các Chúa Nguyễn qua câu nói “Trẫm vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu”
29.Thanh tâm nhất độc: Lắng lòng mà đọc một lần.

 

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây