QUAN HOÀNG TRIỆU TƯỜNG. (Tác giả Nguyễn Hữu Kúc)

Thứ sáu - 26/08/2016 21:11 1.148 0

QUAN HOÀNG TRIỆU TƯỜNG. (Tác giả Nguyễn Hữu Kúc)

LỜI NÓI ĐẦU:

Đền Quan Hoàng Triệu Tường, còn được gọi là đền Đức Ông, ở thôn Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa là một ngôi đền cổ linh thiêng.

Trải qua những thăng trầm của thời cuộc, ngôi đền đã bị tàn phá vào những năm 1960. Toàn bộ kiến trúc và những giá trị lịch sử - văn hóa đi theo của ngôi đền đã bị phá hủy hoàn toàn.
LỜI NÓI ĐẦU
Đền Quan Hoàng Triệu Tường, còn được gọi là đền Đức Ông, ở thôn Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa là một ngôi đền cổ linh thiêng.
Trải qua những thăng trầm của thời cuộc, ngôi đền đã bị tàn phá vào những năm 1960. Toàn bộ kiến trúc và những giá trị lịch sử - văn hóa đi theo của ngôi đền đã bị phá hủy hoàn toàn.


 
Ngôi đền được phục dựng lại vào những năm 1990 nhưng những giá trị văn hóa trong ngôi đền cũ đã mãi mãi mất đi khó có thể tìm lại được, một trong những giá trị đó là những thần phả, thần tích và sắc phong nói lên lịch sử ngôi đền và tiểu sử, công tích của Quan hoàng Triệu Tường.
Năm 2010, nhân ngày kị của Quan hoàng Triệu Tường, Ban quản lý đền đặt ra vấn đề tìm hiểu về sự tích của Ngài để có thể công bố cho bà con trong làng xã và khách thập phương cùng hiểu rõ.
Sau một thời gian sưu tầm, nghiên cứu các tư liệu, giải mã các lời văn, tiểu sử và công tích của Quan hoàng Triệu Tường đã dần hiện rõ và đã có thể công bố được. Tuy vậy nghiên cứu này chỉ mới ở mức độ ban đầu, chủ yếu tập trung vào việc tìm hiểu sự tích của Quan hoàng Triệu Tường, mà niên đại thì cũng đã quá lâu nên không thể nào tránh được  thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý và bổ xung thêm tư liệu để chúng ta cùng nhau hiểu rõ, hiểu kỹ hơn về sự tích và công đức của Ngài.
Mọi ý kiến đóng góp hoặc tư liệu bổ xung xin liên hệ:
-          Nguyễn Hữu Kúc – 0983679886
-          hoặc Email:  huukuc@gmail.com
Xin chân thành cảm ơn.
SỰ TÍCH QUAN HOÀNG TRIỆU TƯỜNG
Theo tín ngưỡng Đạo Mẫu Việt Nam, các Quan Hoàng có thể là Thiên thần hoặc Nhân thần.
Theo truyền thuyết thì Quan hoàng Triệu Tường là con của Vua cha Ngọc Hoàng được sai xuống trần đầu thai vào làm con trai nhà họ Nguyễn ở đất Thanh Hoa. Ngài là một vị tướng toàn tài, hay kinh sử, nhuần binh thư. Ngài là một vị trung thần thời Lê có nhiều công lao trong việc phù giúp nhà Lê đánh Mạc.
Sau khi đánh đuổi nhà Mạc lên đất Cao Bằng, Ngài được vua Lê phong công và giao cho đem binh về đóng ở đất Triệu Tường là quê hương của Ngài. Khi mất, Ngài được vua Lê ban sách vàng và cho lập đền thờ Ngài ở đất Triệu Tường (và có lẽ vì vậy mà Ngài được tôn gọi là Quan hoàng Triệu Tường)
Để xác định được Quan hoàng Triệu Tường là Thiên thần hay Nhân thần, Thân thế và Sự nghiệp của Ngài như thế nào, chúng tôi đã dựa vào các nguồn tư liệu sau:
I- TỪ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN THỜ QUAN HOÀNG TRIỆU TƯỜNG
Hiện nay Quan hoàng Triệu Tường được thờ ở hai nơi là Đền Hoàng ở Hà Nội và Đền Quan hoàng Triệu Tường ở Thanh Hóa. Ngoài ra khi hầu bóng ở nhiều phủ, đền người ta cũng hay thỉnh Quan hoàng Triệu Tường về trong các giá hầu các Quan hoàng thuộc hệ thống Tứ phủ trong Đạo Mẫu Việt Nam.
Đây là bản văn tiêu biểu mà các cung văn thường hát khi hầu giá Quan hoàng Triệu Tường (bản văn này do Giáo sư Ngô Đức Thịnh sưu tầm):
              VĂN QUAN HOÀNG TRIỆU TƯỜNG
1. Chí càn khôn nổi miền Nam Việt
Xứ Thanh Hoa nhân kiệt địa linh
Có ông Hoàng Triệu giáng sinh
Vào nhà Nguyễn tộc nên danh tướng tài
Ngài là con vua thứ hai
Đời Lê Thái tổ quản cai triều đình
Có nhà họ Mạc bất bình
     Vua sai quan Triệu để hành binh sang
Khi đi tế độ nghiêm trang
10. Khi về đóng đất Tống Sơn Triệu Tường
Hay đâu sự lạ phi thường
Hoàng về cho tới Triệu Tường xứ Thanh
Bái Đô còn dấu anh linh
     Công người còn ghi để sử xanh muôn đời
Việt sử chép đời vua Lê Thái tổ
Đức Nguyễn Kim phò chúa an dân
Sinh ông Hoàng Triệu trung thần
Đã hay kinh sử lại nhuần binh thư
Giận họ Mạc quyết trừ căn thảo
20. Đấng trung thần giữ đạo Khương Duy
Ra tay huấn luyện binh kỳ
Làm cho họ Mạc khiếp uy nhường tài
Đã nên đấng khôi đai đệ nhất
Dải Hoành Sơn khởi vận hoàng đồ
Sắc vàng choi chói ngàn thu
Lầu son phủ tía đế đô muôn đời
Đất Đại việt chia Trung Nam Bắc
Khí anh linh đệ nhất thuộc kỳ trung
Đất Thanh Hoa giời để một dòng
30. Trời sinh đấng anh hùng cái thế
Triều Lê kỷ có nhà Nguyễn thị
Trời định sinh Đệ nhị vương quan
Vẻ tốt tươi lá ngọc cành vàng
Tài văn võ đôi đường kiêm vẹn cả
Giận ngụy Mạc quy mô dân xã
Lê quốc quân chỉ hạ cầu tài
Quan Triệu người vâng lệnh bài sai
Đề binh mã ra ngoài Bắc trấn
Vận thần toán bầy binh bố trận
40. Mạc thế cùng chiếu cuốn thu quân
Nẻo Cao Bằng Mạc chúa ẩn thân
Ra lệnh chỉ an dân định cảnh
Ca khải tấu triều đình phụng mệnh
Gió đưa lay phút lánh cõi thần tiên
Sổ bìa vàng choi chói đề tên
Sắc truy tặng ngũ môn chủ soái
Lập đền thờ Triệu quan thành ngoại
Biển vàng ban truyền đến hậu lai
Thỉnh Quan giá ngự đền đài
50. Khuông phù các chư đệ tử đời đời vinh hoa
Giải mã lời văn trong bản văn mà các cung văn thường hát khi hầu giá Quan hoàng Triệu Tường trong hệ thống Tứ phủ, chúng ta thấy:
1-     Quan hoàng Triệu Tường là người Thanh Hóa:
“ Chí càn khôn nổi miền Nam Việt
  Đất Thanh Hoa nhân kiệt địa linh
  Có ông Hoàng Triệu giáng sinh…”
2-     Ngài là con trai thứ hai Ngài Nguyễn Kim:
“…Việt sử chép đời vua Lê Thái tổ
Đức Nguyễn Kim phò chúa an dân
Sinh ông Hoàng Triệu trung thần
Đã hay kinh sử lại nhuần binh thư…
…Triều Lê kỷ có nhà Nguyễn thị
Trời định sinh Đệ nhị vương quan
Vẻ tốt tươi lá ngọc cành vàng
Tài văn võ đôi đường kiêm vẹn cả…”
3-     Ngài là Quan trấn thủ ở phương Nam, là trung thần phù Lê diệt Mạc:
“…Giận họ Mạc quyết trừ căn thảo
Đấng trung thần giữ đạo Khương Duy
Ra tay huấn luyện binh kỳ
Làm cho họ Mạc khiếp uy nhường tài…”
“…Lê quốc quân chỉ hạ cầu tài
Quan Triệu người vâng lệnh bài sai
Đề binh mã ra ngoài Bắc trấn
Vận thần toán bầy binh bố trận
Mạc thế cùng chiếu cuốn thu quân
Nẻo Cao Bằng Mạc chúa ẩn thân…”
4-     Ngài là người có công đầu tiên trong việc khai phá, xây dựng và mở mang bờ cõi tạo nên sự nghiệp lớn (khởi vận hoàng đồ), khởi đầu từ dải Hoành Sơn:
“…Đã nên đấng khôi đai đệ nhất
Dải Hoành Sơn khởi vận hoàng đồ
Sắc vàng choi chói ngàn thu
Lầu son phủ tía đế đô muôn đời…”
5-     Ngài được vua Lê phong công và cho đem binh về đóng ở đất Triệu Tường thuộc Tống Sơn. Khi Ngài mất, Ngài được ban tặng và cho lập đền thờ ở đất Triệu Tường để lưu truyền cho hậu thế:
“…Khi đi tế độ nghiêm trang
Khi về đóng đất Tống Sơn Triệu Tường
Hay đâu sự lạ phi thường
Hoàng về cho tới Triệu Tường xứ Thanh…
…Ca khải tấu triều đình phụng mệnh
Gió đưa lay phút lánh cõi tiên
Sổ bìa vàng choi chói đề tên
Sắc truy tặng ngũ môn chủ soái
Lập đền thờ Triệu quan thành ngoại
Biển vàng ban truyền đến hậu lai…”
Với việc giải mã lời hát của bản văn hầu giá Quan hoàng Triệu Tường, đối chiếu với các tư liệu lịch sử có trong “Đại Việt sử ký toàn thư” và “Đại Nam thực lục”, chúng ta nhận thấy Quan hoàng Triệu Tường trong hệ thống Tứ Phủ của tín ngưỡng Đạo Mẫu Việt Nam chính là Ngài Nguyễn Hoàng.
Có một vấn đề được đặt ra là Ngài Nguyễn Hoàng có kéo quân về đóng ở đất Triệu Tường, Tống Sơn như trong bản văn hầu giá Quan hoàng Triệu Tường nói đến hay không?
Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ tục biên, quyển XVIII – Kỷ nhà Lê, trang 1b và 2b có viết:
“…Bình An Vương (Trịnh Tùng) sai Thiêm đô ngự sử Gia Lộc tử Lê Nghĩa Trạch đem thư cho Thái úy Đoan quốc công Nguyễn Hoàng ở Quảng Nam…. Thư có đoạn “…Đến khi kinh thành đã lấy lại, thiên hạ đã yên Cậu mới ung dung theo về. Triều đình ưu đãi, cho coi một phủ Hà Trung và bẩy huyện miền trên trấn Sơn Nam, trao cho chức Hữu tướng…””
Theo như nội dung thư, trong thời gian Ngài Nguyễn Hoàng ra Bắc để giúp vua Lê đánh nhà Mạc ( 1593 - 1600 ), do có công lao nên được vua Lê phong công và giao cho cai quản một phủ Hà Trung và bẩy huyện miền trên của trấn Sơn Nam. Khi đã nhận cai quản vùng đất này thì đương nhiên Ngài phải đưa quân về trấn giữ, trong đó có cả quân bản bộ của Ngài, và có lẽ khu vực mà Ngài chọn để đóng quân lúc này không đâu hơn vùng đất Triệu Tường, Tống Sơn. Vùng đất có ruộng vườn tươi tốt, có núi đồi rộng lớn và hiểm trở, tiến thì dễ theo đường bộ và đường thủy đi khắp nơi, lui thì dựa vào núi rừng để phòng ngự chờ thời, hơn nữa vùng đất này là quê hương bản quán của Ngài, Ngài về trong sự chở che và giúp sức của những người đồng hương và họ hàng ruột thịt.
Do vậy, việc Ngài Nguyễn Hoàng đem quân về đóng ở đất Triệu Tường, Tống Sơn trong thời gian Ngài cai quản phủ Hà Trung và bẩy huyện miền trên trấn Sơn Nam là hoàn toàn có thể.
II- TỪ NGHIÊN CỨU CỦA CÁC NHÀ KHOA HỌC
1- Cố Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng
Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng là một nhà sử học uy tín. Trong tham luận của Giáo sư viết cho một hội thảo về vua Gia Long dự kiến tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 1996, do liên quan đến quan điểm chính trị lúc bấy giờ nên hội thảo này cuối cùng đã không thể tổ chức được, Cố Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng đã viết
“…Từ thế kỷ XVII – XVIII trên đường hình thành Đạo Mẫu Việt Nam …, Nguyễn Hoàng đã được thờ ở khắp xứ Đàng Ngoài dưới tên gọi “Quan lớn Triệu Tường”….”
(Giáo sư Trần Quốc Vượng – Mấy vấn đề về Vua Gia Long, phần 03.7, trang 8):
2- Giáo sư Tiến sĩ Ngô Đức Thịnh
Giáo sư Tiến sí Ngô Đức Thịnh là nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, ông nguyên là Viện Trưởng Viện nghiên cứu văn hóa Việt Nam và hiện nay là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia và Phó Chủ tịch Hội đồng Folklore châu Á.
Trong quá trình nghiên cứu về Đạo Mẫu Việt Nam, ông đã sưu tầm và hoàn chỉnh các bản văn mà các cung văn thường hát khi hầu giá các Mẫu, các Quan, các ông Hoàng và các Cô các Cậu, trong đó có bản văn hát về Quan hoàng Triệu Tường trong hệ thống Tứ phủ như đã nêu ở trên, đồng thời ông cũng xác định Quan Hoàng Triệu Tường là người có công mở rộng bờ cõi đất đai.
III- TỪ CÁC THÔNG TIN TRÊN MẠNG VỀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VIỆT NAM
Trên các trang tin điện tử về Tín ngưỡng dân gian Việt Nam như:
-          Đạo Mẫu Việt Nam
-          Đông A phủ
-          Mantico
-          Câu lạc bộ Hát văn
-          Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng VN
-          ……..
Các trang tin điện tử này đều cơ bản thống nhất khi nói về Quan Hoàng Triệu tường như sau:
-          Ngài là người xứ Thanh Hóa;
-          Là con trai nhà họ Nguyễn, thân phụ Ngài là Ngài Nguyễn Kim, người cai quản triều đình dưới thời vua Lê;
-          Ngài là trung thần triều Lê, có công phù Lê diệt Mạc;
-          Ngài đem quân về đóng ở đất Triệu Tường;
-          Ngài khởi nghiệp lớn từ dải Hoành Sơn;
-          Khi mất, Ngài được Vua Lê ban sách vàng và cho lập đền thờ Ngài ở Triệu Tường xứ Thanh Hoa.
IV- CÁC NƠI THỜ TỰ
Hiện nay ở miền Bắc chỉ còn thấy 2 nơi có đền thờ Quan Hoàng Triệu Tường:
1- Đền Hoàng ở xã Liên Mạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Tương truyền đền được xây lên để thờ Ngài ngay trên đất Ngài đóng quân khi Ngài ở Đông Đô giúp vua Lê đánh nhà Mạc.
2- Đền Quan Hoàng Triệu Tường ở đất Triệu Tường xưa (nay là làng Gia Miêu, xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa).
3- Ngài thường hay được thỉnh về trong các giá hầu các quan Hoàng thuộc hệ thống Tứ phủ trong Đạo Mẫu Việt Nam.
V- TIỂU SỬ VÀ CÔNG TÍCH NGÀI NGUYỄN HOÀNG
Ngài Nguyễn Hoàng là người Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, xứ Thanh Hoa. Ngài sinh ngày Bính Dần, tháng Tám, năm Ất Dậu [1525], là con trai thứ hai của Ngài Nguyễn Kim (Cam) - người có công tôn lập Trang tông Dụ hoàng đế húy là Ninh lên ngôi vào năm 1533 mở đầu thời kỳ Lê trung hưng, được vua Lê tôn là Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công, chưởng nội ngoại sự, sau này được triều Nguyễn suy tôn là Triệu tổ Tĩnh Hoang đế.
Khi anh trai bị hãm hại, nghe tiếng Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm là người giỏi về thuật số, từng làm tới chức vị Thái Bảo trong triều Mạc, Ngài Nguyễn Hoàng liền bí mật sai người tới hỏi về kế sách giữ mình thì được Trạng khuyên:         
“Hoành Sơn nhất đái
Vạn đại dung thân”
           Nghĩa là một dải Hoành Sơn có thể dung thân muôn đời. Hiểu ý, Ngài nhờ chị gái là Ngọc Bảo nói với Trịnh Kiểm tâu lên vua Lê để xin vào trấn đất Thuận Hóa.
 Mùa Đông, tháng Mười, năm Mậu Ngọ [1558], Ngài vâng mệnh vua Lê, Ngài đem theo những người bộ khúc đồng hương ở Tống Sơn và những người nghĩa dũng xứ Thanh Hoa lên đường vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Ngài vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân mến phục, bấy giờ thường được gọi là chúa Tiên. Nghiệp đế dựng nên, thực là xây nền từ đấy.
Tháng 5 năm Nhâm Thìn [1592], Ngài đem binh quyền ra Đông Đô yết kiến vua Lê, được phong làm Trung quân đô đốc phủ tả đô đốc chưởng phủ sự Thái úy Đoan quốc công.  Ngài đã có nhiều công lao giúp nhà Lê trong việc tiễu trừ nhà Mạc. Tháng 5 năm Canh Tý [1600], Ngài đem cả tướng sĩ thuyền ghe bản bộ đi đường biển trở về Thuận hóa. Từ đấy Ngài và các thế hệ con cháu kế tiếp liên tục mở rộng bờ cõi về phía Nam, xây dựng nên một đất nước thống nhất dưới quyền của Vương triều Nguyễn. Tháng 6, ngày Canh Dần, năm Quý Sửu [ngày 03 tháng 6 ÂL năm 1613], Ngài yếu mệt, cho triệu hoàng tử thứ 6 và các thân thần đến trước giường căn dặn rằng:
“Đất Thuận Quảng phía Bắc có núi Ngang [Hoành Sơn] và sông Gianh [Linh Giang] hiểm trở, phía Nam có núi Hải Vân và núi Đá Bia vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời …”.
Ngày ấy Ngài băng, hưởng thọ 89 tuổi. Ban đầu thì an táng ở núi Thạch Hãn (xã thuộc huyện Hải Lăng, Quảng Trị), sau cải táng ở núi La Khê (xã thuộc huyện Hương Trà, Thừa Thiên-Huế; năm Minh Mệnh thứ 2, phong núi ấy làm núi Khải Vận).
Trong suốt 55 năm cai trị Thuận-Quảng, nhẫn nhịn để chờ thời cơ, lập chí lớn, gây dựng cơ nghiệp lâu dài để lại cho con cháu mai sau, Ngài vừa là một vị tướng mưu lược, vừa là một vị Chúa khôn ngoan lại có lòng nhân đức, thu phục hào kiệt, vỗ về dân chúng và lo phát triển kinh tế, mở rộng bờ cõi đất nước xuống phía nam, mở đầu cho việc hùng cứ phương nam của 9 chúa Nguyễn, tạo tiền đề cho việc thành lập Vương triều nhà Nguyễn bao gồm 13 vua;
Ngài là người có tầm nhìn của một nhà chiến lược xuyên thế kỷ: Ngài hướng ra Bắc mong khôi phục nhà Lê, hướng vào Nam để mở mang bờ cõi; hướng ra các đảo trên biển Đông xác lập chủ quyền quốc gia; mở mang giao thương quốc tế, lập nên các khu thương mại tự do để làm cho Đàng Trong giầu mạnh; tin dùng người hiền tài, vỗ về khoan thư sức dân cho nên Ngài được dân chúng Thuận Quảng cảm mến, thường gọi Ngài là Chúa Tiên.
Ngài được các vua triều Nguyễn sau này suy tôn là Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế, lăng gọi là Trường Cơ.
LỜI KẾT
            Quan hoàng Triệu Tường – ngài Nguyễn Hoàng, vị Nhân thần có nhiều công lao trong sự nghiệp xây dựng và mở mang bờ cõi mở đầu cho việc hùng cứ phương nam của 9 chúa Nguyễn, tạo tiền đề cho việc thành lập Vương triều  bao gồm 13 vua nhà Nguyễn.
            Nhà Nguyễn – bao gồm cả các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn – đã để lại một di sản lớn lao nhất cho dân tộc là một giang sơn đất nước trải rộng trên lãnh thổ thống nhất từ Bắc chí Nam, bao gồm cả đất liền và các hải đảo trên biển Đông.
            Trên lãnh thổ đó là một di sản văn hóa đồ sộ bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới từ 11/12/1993 và đến ngày 07/11/2003 Nhã nhạc cung đình Huế lại được công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Hội An cũng là một cảng thị tiêu biểu và khu di tích phố cổ Hội An cũng đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới vào ngày 04/12/1999. Chưa có một thời kỳ lịch sử nào để lại cho dân tộc ba di sản văn hóa được thế giới công nhận và tôn vinh với những giá trị mang ý nghĩa toàn cầu như vậy.
            Khi sinh thời Ngài là một vị tướng lĩnh, một vị quan lớn, một vị Chúa tài năng, đức độ, trí dũng song toàn có nhiều công lao to lớn và căn bản với đất nước. Khi mất Ngài là một vị Nhân thần anh linh luôn phù hộ cho nhân dân và xã tắc, đó là Quan Hoàng Triệu Tường – ngài Nguyễn Hoàng, đức Thái tổ Gia dụ Hoàng đế, vị Chúa và là vị Nhân thần mãi trường tồn trong đời sống tâm linh của nhân dân và luôn được khắc ghi những công lao to lớn của Ngài trong lòng dân tộc Việt Nam./.
Mời quý bà con xem Video clip:



Mời vào xenm hình ảnh do ông Nguyễn Hữu Kúc cung cấp
Tượng bằng đồng Quan Hoàng Triệu Tường
Mặt trước sân Đền.
Nguyễn Hữu Kúc

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây